Nhân sâm là vị thuốc bổ quý hiếm, đứng đầu trong 4 vị thuốc thượng hạng của Đông y (Sâm, Nhung, Quế, Phụ).
Theo cuốn "Thần Nông bản thảo kinh", sâm có vị ngọt và hơi lạnh. Nó đặc biệt tốt cho các nội tạng quan trọng. Khoa học hiện đại có thể phân tích hoạt chất trong các vị thuốc trong Đông y, nhưng vẫn không đạt tới tinh túy thực sự của nó. Thực ra, đặc tính của các hoạt chất trong Đông y thì không thể nào tách ra được. Cũng có ý nói rằng tuy chỉ có 1 vị thuốc nhân sâm nhưng trong đó có thể chứa rất nhiều hoạt chất.
Đặc tính của y học cổ truyền nghiên cứu về bản chất của âm và dương (lạnh, mát, ấm và nóng) và vị của nó (ngọt, cay, mặn, chua, và đắng). Mỗi vị có thể được chia theo bản chất và đặc tính. Ví dụ, vị ngọt có thể làm gia tăng tuần hoàn máu và tăng cường sinh lực. Đồng thời Đông y cũng phối hợp các vị thuốc với nhau trong 1 thang thuốc theo nguyên tắc "Quân - Thần - Tá - Sứ" để hỗ trợ và khắc phục nhược điểm của nhau.
Đặc tính mà sâm có được là nhờ vào môi trường mà nó mọc, vậy nên sâm ở các khu vực khác nhau cũng lại có tác dụng khác nhau. Sâm hoang dã thường mọc ở sườn núi với độ cao từ 500 đến 1.100m. Vì mang sinh khí của núi trời nên có thể làm cho cơ thể con người kiện tráng như núi cao vững chãi.
Chữ "sơn" tiếng Hoa đến từ quẻ "Cấn" trong Bát Quái. Quẻ này mang nhiều Âm hơn Dương và đối ứng với tính hàn lạnh của núi. Vì thế, sâm có một chút tính hàn. Nhưng sâm mọc trên sườn núi, tức là ở bên mặt Dương của núi, vì thế sâm cũng có một chút tính Dương. Thêm vào đó, quẻ "Cấn" thuộc về yếu tố "Thổ" mang tính ngọt, và vì thế sâm có phần tính Dương của ngọt.
Trong số các bộ phận nội tạng của chúng ta, lá lách và bụng thuộc về tính Thổ, mà theo Đông y là gốc của năng lượng. Vì thế, phần dương của tính ngọt trong sâm có thể củng cố tính dương của lá lách và bụng, theo đó mang năng lượng đến khắp toàn thân.
Theo y học hiện đại, nhân sâm cũng là dược liệu quý hiếm có vị đắng, không độc, có tác dụng đại bổ nguyên khí, giúp bồi bổ sức khỏe, nâng cao thể lực cho con người nhờ các thành phần hợp chất hữu cơ quan trọng như chất Germanium, Glycoside Panaxin cùng với các vitamin B1, vitamin B2, các axit béo như axit Panmitic, Streari, Linoleic và các axitamin.
Đặc biệt, nhân sâm có công dụng tuyệt vời trong việc bồi bổ trí não, phát triển tư duy, trí tuệ, tăng cường hệ miễn dịch, hỗ trợ điều trị ung thư, ngăn ngừa lão hóa.
Ngoài ra, loại thảo dược này còn có thể được dùng để hỗ trợ điều trị trong các trường hợp bệnh nhân thiếu máu, mắc các bệnh như viêm dạ dày, hen suyễn hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính…
Nhân sâm tuy là loại thuốc bổ khí đầu vị, song không phải dùng cho mọi đối tượng được. Người bụng thường xuyên bị đầy trướng, căng tức, đau bụng, sôi bụng, phân nát, lỏng hoặc tiêu chảy không được dùng. Đặc biệt, nếu bị đau bụng, tiêu chảy, dùng nhân sâm có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
Người bị nôn mửa, trào ngược dạ dày - thực quản, tăng huyết áp cũng không nên dùng. Vì sâm lúc đầu có tác dụng tăng huyết áp, sau lại hạ. Do vậy nếu ở trạng thái tăng huyết áp dễ dẫn đến tai biến mạch máu não. Phụ nữ trước ngày sinh cũng không nên dùng sâm.
Người hay mất ngủ nhưng sức khỏe yếu mà muốn dùng sâm nên dùng buổi sáng với liều lượng thấp, khoảng 2-3g/ngày. Cần lưu ý không dùng lô sâm (đầu núm rễ củ sâm), vì có tác dụng gây nôn. Không dùng kèm với vị lê lô và ngũ linh chi.
Trẻ em cơ thể yếu, kém ăn, chậm phát triển về thể lực và tinh thần có thể dùng nhân sâm, song không nên quá lạm dụng vì có thể làm cho trẻ bị kích dục sớm.